Ngày 02-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản
Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cũng từ đây,
Đảng ta chính thức bước lên vị trí của một đảng cầm quyền. Tuy nhiên, khi
Đảng trở thành Đảng cầm quyền, tức là Đảng lãnh đạo toàn thể xã hội thông
qua bộ máy nhà nước từ Trung ương đến cơ sở, thì không tránh khỏi có lúc, có
nơi, các tổ chức đảng và đảng viên trong bộ máy chính quyền các cấp còn mắc
những sai lầm, khuyết điểm. Để phát hiện và ngăn chặn kịp thời những sai lầm
và khuyết điểm trong Đảng, công tác kiểm tra, giám sát có ý nghĩa quan trọng
hàng đầu. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng nhận định: “Công tác kiểm tra có
vị trí cực kỳ quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng, kiểm tra và
giữ gìn kỷ luật Đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng”. Trong nhiều nghị quyết đại
hội gần đây, Đảng ta đã thẳng thắn chỉ ra những tồn tại, thiếu sót của Đảng khi
cầm quyền. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, ngoài việc đề cập đến tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên; những âm mưu, thủ đoạn mới của các thế lực
thù địch nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, còn chỉ
ra những biểu hiện “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” trong nội bộ: “Bốn nguy cơ mà
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) nêu lên
vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như tham nhũng, lãng phí, “diễn biến
hòa bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, nhất là triệt để sử
dụng các phương tiện truyền thông trên mạng Internet để chống phá ta và những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Niềm tin của cán bộ,
đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút” (1).
Việc ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện tiêu
cực là một nhiệm vụ chính trị cấp bách của toàn Đảng, được ví như hành động
“chữa bệnh hiểm nghèo”, đòi hỏi phải được tiến hành ngay và đạt được hiệu quả
cao nhất, nếu không sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tồn vong của chế độ.
Những năm gần đây, nhiều giải pháp được Đảng ta đề ra và tích cực triển
khai thực hiện để phục vụ cho nhiệm vụ chính trị cấp bách này, như
đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nâng
cao hiệu quả giáo dục chính trị tư tưởng... Trong đó, công tác kiểm tra, giám
sát là một trong những giải pháp được Đảng ta hết sức chú trọng lãnh
đạo triển khai thực hiện, được nêu rõ trong Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 4 khóa XII.
Những năm qua, quán triệt thực hiện các chủ
trương, nghị quyết của Đảng, công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy các cấp
được tổ chức tiến hành nghiêm túc, bài bản và đạt được nhiều thành tựu quan
trọng. Cụ thể như sau: Nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng, ủy ban kiểm tra
các cấp đã tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm 15.911 tổ chức đảng và
55.250 đảng viên (tăng 0,9% số tổ chức đảng, giảm 24,7% số đảng viên so với
nhiệm kỳ trước). Trong đó: Ủy ban Kiểm tra Trung ương kiểm tra 13 tổ chức
đảng và 33 đảng viên (giảm 76% số tổ chức đảng và 74% số đảng viên so với
nhiệm kỳ trước). Qua kiểm tra, kết luận các tổ chức đảng, đảng viên bị kiểm
tra đều có khuyết điểm, vi phạm; trong đó, đối với tổ chức đảng vi phạm
phải đề nghị thi hành kỷ luật bằng hình thức khiển trách là 3 tổ chức; đối
với đảng viên vi phạm phải thi hành kỷ luật là 13 trường hợp vi phạm
(kỷ luật bằng hình thức khiển trách là 7 trường hợp vi phạm, kỷ luật
bằng hình thức cảnh cáo là 6 trường hợp vi phạm). Ủy ban kiểm tra các địa phương, đơn vị tiến
hành kiểm tra 15.898 tổ chức đảng và 55.217 đảng viên, trong đó có 24.231 cấp
ủy viên các cấp (chiếm 43,9% số đảng viên được kiểm tra). Nội dung kiểm
tra tập trung ở những địa bàn nổi cộm, vào những lĩnh vực dễ phát sinh sai
phạm, như quản lý kinh tế, tài chính, đất đai, khoáng sản; việc chấp hành
nguyên tắc tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống của
cán bộ, đảng viên… Qua kiểm tra, kết luận số tổ chức đảng có vi phạm là 10.478
tổ chức, chiếm 65,8% tổng số tổ chức đảng được kiểm tra; thi hành kỷ luật
đối với 791 tổ chức đảng, chiếm 7,6% tổng số tổ chức đảng có vi phạm. Số
đảng viên có vi phạm là 42.757 trường hợp, chiếm 77,3% tổng số đảng viên
được kiểm tra; thi hành kỷ luật đối với 20.344 trường hợp đảng viên vi
phạm, chiếm 47,6% tổng số đảng viên vi phạm. Trong nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng, ủy
ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật đối với 17.325 đảng viên (giảm
23,5% so với nhiệm kỳ trước). Trong đó, Ủy ban Kiểm tra Trung ương thi hành
kỷ luật đối với 27 đảng viên (giảm 39% so với nhiệm kỳ trước), bằng các hình
thức: Khiển trách đối với 14 trường hợp vi phạm; cảnh cáo đối với 12
trường hợp vi phạm, cách chức đối với 1 trường hợp vi phạm. Ủy ban kiểm
tra các địa phương, đơn vị đã thi hành kỷ luật đối với 17.298 đảng viên, bằng
các hình thức: Khiển trách đối với 5.435 trường hợp vi phạm; cảnh cáo đối
với 4.930 trường hợp vi phạm; cách chức đối với 518 trường hợp vi phạm;
khai trừ đối với 6.415 trường hợp vi phạm. Nội dung các vi phạm chủ yếu là:
những điều đảng viên không được làm; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo,
quản lý; vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống; vi phạm về quản lý đất đai, tài
nguyên, khoáng sản; tham nhũng... (2).
Mặc dù đạt được những kết quả đáng ghi
nhận, công tác kiểm tra, giám sát thời gian qua cũng còn nhiều hạn chế,
bất cập, được Đảng ta thẳng thắn chỉ ra trong Nghị quyết Đại hội XII
của Đảng là: “Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và xử lý tổ
chức đảng và đảng viên vi phạm chưa cao, chưa đủ sức góp phần ngăn chặn, đẩy
lùi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong nội bộ Đảng. Nhiều khuyết điểm, sai
phạm của tổ chức đảng, đảng viên chậm được phát hiện, kiểm tra, xử lý, hoặc xử
lý kéo dài, nên kỷ cương, kỷ luật ở một số nơi chưa nghiêm; chưa phát huy đầy
đủ vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và của nhân
dân trong công tác kiểm tra, giám sát” (3).
Trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa
XII, Đảng ta tiếp tục nêu rõ những hạn chế trong công tác kiểm tra,
giám sát thời gian qua như: “Việc xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm còn nương
nhẹ, nể nang, thiếu cương quyết. Chưa có cơ chế khen thưởng những tập thể, cá
nhân tổ chức thực hiện nghị quyết sáng tạo, có hiệu quả và xử lý nghiêm những
tập thể, cá nhân không thực hiện hoặc thực hiện không nghiêm túc. Sự phối hợp
giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra, kiểm toán,
điều tra, truy tố, xét xử chưa chặt chẽ, xử lý chưa đủ nghiêm minh. Công tác
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu; việc kê khai tài
sản, thu nhập còn hình thức” (4). Đồng thời, Đảng khẳng định những yếu kém
trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng của tổ chức đảng và
cấp ủy các cấp là một trong những nguyên nhân chủ quan dẫn đến việc đấu tranh
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng chưa đạt hiệu
quả cao. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, góp phần
ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống trong nội bộ Đảng hiện nay, xin đề xuất một số giải pháp như sau:
Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức của các
cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra của Đảng, trước hết là người đứng đầu
cấp ủy về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng.
Theo Quy định số 30-QĐ/TW, ngày 26-7-2016, của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, về “Thi hành Chương VII và
Chương VIII Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng”,
cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng các cấp chính là chủ thể và cũng
là đối tượng của công tác kiểm tra, giám sát, do đó họ phải nắm vững những chủ
trương, nghị quyết, quy định của Đảng về công tác xây dựng Đảng nói chung, công
tác kiểm tra, giám sát nói riêng. Việc hiểu rõ trách nhiệm của tổ chức đảng,
cấp ủy và đảng viên khi được kiểm tra, giám sát sẽ góp phần không để xảy ra
tình trạng cấp trên bao che cấp dưới, phát hiện ra sai phạm nhưng không xử lý,
hoặc có xử lý nhưng không đúng mức độ vi phạm. Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ
công tác kiểm tra, giám sát cho cấp ủy các cấp, nhất là cấp ủy cơ sở. Tổ chức
đảng và cấp ủy các cấp chính là một trong những chủ thể trực tiếp tiến hành
công tác kiểm tra, giám sát. Tuy nhiên, không phải cấp ủy viên nào cũng hiểu
sâu sắc về nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát, do vậy, cần thường xuyên mở
các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát cho cấp ủy các cấp,
nhất là cấp ủy cơ sở, bởi họ chính là những người trực tiếp tiến hành công tác
giáo dục, rèn luyện, quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Bên cạnh đó, để nâng cao nhận thức về
công tác kiểm tra, giám sát, song song với quá trình triển khai các
quy định, hướng dẫn của Đảng, cần phải chú trọng đẩy mạnh việc tổng
kết kinh nghiệm trong thực hiện kiểm tra, giám sát. Việc thường xuyên tổng
kết, đúc rút kinh nghiệm, một mặt, sẽ cung cấp cho chúng ta cái nhìn bao
quát nhất; mặt khác, giúp nhìn rõ những bấp cập trong công tác kiểm tra,
giám sát, thi hành kỷ luật Đảng, từ đó đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhằm
khắc phục hạn chế, nâng cao chất lượng của công tác quan trọng này.
Hai là, khi tiến hành công tác kiểm tra, giám
sát, cần phát huy tinh thần tự giác của đảng viên và tổ chức đảng.
Tổ chức đảng là tổ chức chặt chẽ nhất, tiên
phong nhất của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Đảng
viên là những chiến sĩ tiên phong lãnh đạo vốn mang bản chất tự giác trong nhận
thức vào hoạt động. Mặc dù vậy, do trình độ nhận thức, quá trình rèn luyện
và môi trường hoạt động rất khác nhau, nên mức độ tự giác của các đảng viên và
các tổ chức đảng cũng biểu hiện khác nhau. Vì thế, trong thời gian tới, khi
tiến hành công tác kiểm tra, giám sát, cần hết sức coi trọng công tác tư tưởng,
đề cao ý thức tự phê bình và phê bình, cũng như tinh thần thương yêu đồng chí
trong Đảng, từ đó biết tin tưởng, khuyến khích mặt tốt của đồng chí mình;
đồng thời, kết hợp hài hòa với nguyên tắc tập trung dân chủ để khắc phục
những biểu hiện lạm dụng, cản trở hoặc gây khó khăn cho công tác kiểm tra, giám
sát.
Ba là, các tổ chức đảng và cấp ủy các cấp cần
tích cực phát huy sự tham gia của nhân dân vào công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng.
Trong 87 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng ta
luôn giữ mối quan hệ mật thiết với nhân dân, bởi Đảng là đảng của
dân. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả công tác xây dựng Đảng, đẩy lùi sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, công tác kiểm tra, giám
sát của Đảng nhất thiết phải có sự tham gia tích cực của các tầng
lớp nhân dân.
Kết quả của công tác kiểm tra, giám sát thời
gian qua cho thấy, nhiều vụ án tham nhũng, lãng phí lớn được phát hiện từ những
phản ánh của quần chúng nhân dân, vì vậy, muốn phát hiện và ngăn chặn kịp thời
những biểu hiện vi phạm của đội ngũ cán bộ, đảng viên thì các tổ chức đảng
và cấp ủy các cấp cần tích cực lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, bức xúc của
nhân dân, từ đó xây dựng kế hoạch và triển khai công tác kiểm tra, giám
sát đạt hiệu quả. Việc phát huy vai trò của nhân dân trong
công tác kiểm tra, giám sát phải theo nguyên tắc vừa tôn trọng, lắng nghe
ý kiến của quần chúng nhân dân, vừa phải có sự phân tích, chọn lọc các ý
kiến đó, biết “lọc thô lấy tinh”, tiếp thu những ý kiến đúng, kịp
thời uốn nắn, làm rõ những ý kiến thiếu khách quan, phiến diện, thậm chí là
vì động cơ cá nhân. Đồng thời, tăng cường tuyên truyền cho nhân dân hiểu về
vai trò của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, cũng như tầm quan trọng,
trách nhiệm của nhân dân đối với công tác này.
Muốn vậy, cấp ủy các cấp, nhất là cấp ủy cơ
sở phải thường xuyên giữ mối liên hệ, gắn bó mật thiết với nhân dân, tiếp
xúc, lắng nghe tâm tư nguyện vọng, phản ánh của nhân dân về những trường hợp
cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống. Sau khi lắng nghe ý kiến của nhân dân, tổ chức đảng và cấp ủy các cấp cần
tiến hành xác minh, kiểm tra, làm rõ, không vì để bao che cho đồng chí của
mình mà tổ chức kiểm tra nhưng mang tính hình thức, qua loa, đại khái, không đi
đến kết luận cuối cùng. Qua đó, tăng cường lòng tin của nhân dân với
Đảng, tăng cường hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát, góp phần
ngăn chặn, xử lý kịp thời các vi phạm của tổ chức đảng và đảng
viên.
Bốn là, kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan ủy ban
kiểm tra ngang tầm với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; bảo đảm đủ
số lượng, tăng cường chất lượng của đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp.
Cần nghiên cứu cơ cấu, số lượng thành viên
ủy ban kiểm tra các cấp sao cho hợp lý; xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy cơ
quan ủy ban kiểm tra các cấp bảo đảm thống nhất mô hình các đơn vị giúp việc
từ cấp tỉnh trở lên. Tăng cường cán bộ kiểm tra chuyên trách cho ủy ban kiểm
tra đảng ủy các xã, phường thị, trấn, các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp có
từ 300 đảng viên trở lên, đặc biệt coi trọng cơ quan kiểm tra của tổ chức đảng
trong doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
kiểm tra, cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng trình độ lý luận
chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát, đặc biệt
là giáo dục bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ ủy ban kiểm tra
các cấp; xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra có cơ cấu hợp lý ở các cấp, đủ phẩm
chất, năng lực hoàn thành nhiệm vụ. Bên cạnh đó, để đội ngũ cán bộ kiểm
tra thêm yên tâm công tác, tổ chức đảng các cấp cần phải quan tâm, làm tốt
các chế độ, chính sách đãi ngộ đối với họ. Từ thực tế công tác kiểm tra,
giám sát cho thấy, nhiều cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát của Đảng vì
điều kiện hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, nên khi thực hiện nhiệm vụ đã bị
mua chuộc, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả kiểm tra. Do đó, tổ chức
đảng, cấp ủy các cấp cần thường xuyên quan tâm, động viên và có chính sách
khuyến khích, hỗ trợ đối với cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát. Đồng
thời, cần xử lý nghiêm minh những cán bộ không giữ được bản lĩnh, vì lợi ích
bản thân mà tác động, gây ảnh hưởng tiêu cực, làm sai lệch kết quả kiểm tra./.
--------------------------------------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 68
(2) Xem: Đặng Thị Ngọc Hoa: Công tác kiểm tra, giám sát trong phòng,
chống suy thoái tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống cán bộ, đảng viên,
Tạp chí Xây dựng Đảng (xaydungdang.org.vn), ngày 1-8-2016
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 195
– 196
(4) Ban Tuyên giáo Trung ương: Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội
nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Nxb. Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 53 - 54
Ngô
Minh Anh (Học viện An ninh Nhân dân)